THIẾT KẾ VÀ TỔ CHỨC DẠY HỌC CHỦ ĐỀ STEM: VAI TRÒ CỦA STEM TRONG VIỆC NÂNG CAO PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO CHO HỌC SINH THEO ĐỊNH HƯỚNG CHƯƠNG TRÌNH MỚI 2018 CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Ngày 1/1/202519 phút đọc
Huỳnh Thảo Nguyên1
1Trường THPT FPT Cần Thơ
(Email: [email protected])
Tóm tắt
Giáo dục STEM là một trong những hình thức của hoạt động trải nghiệm sáng
tạo có hiệu quả cao trong giáo dục, góp phần đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng
cao để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Đề tài “Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề STEM: Vai trò của stem trong việc nâng cao phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh theo định hướng chương trình mới 2018 của bộ giáo dục và đào tạo” sẽ làm rõ được giáo dụng STEM thông qua các phương pháp nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực tiễn. Từ đó kết luận rằng, Giáo dục STEM rất cần thiết và phù hợp với bối cảnh giáo dục Việt Nam hiện nay. Triển khai dạy học theo định hướng giáo dục STEM trong trường phổ thông nói chung và trong dạy học Hoá học nói riêng là nhiệm vụ trong kế hoạch giáo dục của các trường phổ thông. Thông qua hoạt động dạy học theo định hướng giáo dục STEM, học sinh có cơ hội phát triển cả phẩm chất và năng lực, điều đó hoàn toàn phù hợp với các mục tiêu đề ra trong định hướng đổi mới giáo dục và trong chương trình giáo dục phổ thông mới 2018; Qua việc tổ chức dạy học STEM chúng tôi thấy việc dạy học môn Hoá theo định hướng giáo dục STEM là có hiệu quả và có tính khả thi. Qua hoạt động này học sinh phát triển được nhiều năng lực và phẩm chất cốt lõi. Đặc biệt năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo của học sinh được thể hiện và có cơ hội phát triển. Ngoài ra các hoạt động thực tế còn mang lại sự hào hứng cho học sinh và tạo cho học sinh thái độ học tập tích cực hơn; Đề tài sau một thời gian nghiên cứu, thiết kế và tổ chức hoạt động học tập, rút kinh nghiệm giảng dạy của bản thân và từ các ý kiến đóng góp chân thành của các đồng nghiệp nơi tôi công tác. Chúng tôi hy vọng đề tài của mình đóng góp một phần nhỏ cho sự phát triển của xu hướng giáo dục STEM hiện nay và đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới 2018.
Từ khóa: STEM, Giáo dục STEM, thiết kế, tổ chức.
1. GIỚI THIỆU
1.1. Khái niệm giáo dục STEM
STEM là thuật ngữ viết tắt của các từ Science (Khoa học), Technology (Công
nghệ), Engineering (Kĩ thuật) và Mathematics (Toán học) (Sanders, 2009). STEM
là thuật ngữ rút gọn được sử dụng khi bàn đến các chính sách phát triển về Khoa
học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học của Mỹ. Thuật ngữ này lần đầu tiên được
giới thiệu bởi Quỹ Khoa học Mỹ (NSF) vào năm 2001. Trước đó, năm 1990, NSF
dùng thuật ngữ SMET tuy nhiên thuật ngữ này có cách phát âm giống từ “SMUT”
(một từ có ý nghĩa không tích cực), vì vậy SMET sau nay được đổi thành STEM.
Hiện nay thuật ngữ STEM được dùng trong hai ngữ cảnh khác nhau đó là ngữ cảnh
giáo dục và ngữ cảnh nghề nghiệp. Trong ngữ cảnh giáo dục, nói đến STEM là
muốn nhấn mạnh đến sự quan tâm của nền giáo dục đối với các môn Khoa học,
Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học. Quan tâm đến việc tích hợp các môn học trên
gắn với thực tiễn để năng cao năng lực cho người học. Giáo dục STEM có thể
được hiểu và diễn giải ở nhiều cấp độ như: chính sách STEM, chương trình STEM,
nhà trường STEM, môn học STEM, bài học STEM hay hoạt động STEM. Trong
ngữ cảnh nghề nghiệp, STEM được hiểu là nghề nghiệp thuộc các lĩnh vực Khoa
học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học, ví dụ: Nhóm ngành nghề về công nghệ
thông tin; Y sinh; Kĩ thuật, Điện tử và Truyền thông… (The White House,
S.t.o.U.A).
1.2. Vai trò của giáo dục STEM
Đảm bảo được giáo dục toàn diện: Giáo dục truyền thống tập trung vào các
môn học thông thường như Toán, Khoa học, … Nhưng giáo dục STEM thì tập
trung vào tích luỹ kiến thức về lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật cho học sinh.
Nâng cao hứng thú học tập cho học sinh: Trong giáo dục STEM học sinh
hướng tới sử dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề trong đời sống. Vì
thế khi được tự hoạt động và trải nghiệm thì các em mới biết được ý nghĩa của tri
thức với cuộc sống. Từ đó, các em sẽ có hứng thú và nhớ được lâu hơn các kiến
thức đã học.
Giúp phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh: Để hoàn thành được nhiệm
vụ, học sinh phải cần có những kiến thức, kỹ năng liên quan đến các môn học
Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học. Học sinh biết liên kết các kiến thức
Khoa học, Toán học để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Học sinh biết sử dụng,
quản lý và truy cập Công nghệ. Học sinh biết về quy trình thiết kế và chế tạo ra các
sản phẩm. Từ đó phát triển các năng lực đặc thù của các môn học thuộc về STEM
cho học sinh. Ngoài ra học sinh phải hợp tác với nhau, chủ động và tự lực thực
hiện các nhiệm vụ học; được làm quen hoạt động có tính chất nghiên cứu khoa
8 học; các hoạt động nêu trên góp phần tích cực vào hình thành và phát triển phẩm
chất, năng lực chung và năng lực sáng tạo cho học sinh. Là mô hình học tập tiên
tiến nhằm giúp học sinh hoàn thiện bản thân mình.
Định hướng nghề nghiệp cho học sinh: Thông qua các hoạt động STEM, kiến
thức sẽ được vận dụng, học sinh mới dễ dàng nhận thức và hình dung được công
việc cụ thể của một nghề nào đó, thấy được đóng góp của ngành nghề đó cho xã
hội, thấy được các năng khiếu của bản thân và đam mê của mình trong đó. Ví dụ
thông qua một chủ đề STEM, học sinh có thể tìm hiểu được mức lương hiện nay
của ngành nghề liên quan là bao nhiêu, công việc đó đòi hỏi phải có những kỹ
năng và kiến thức gì, từ đó hình dung ra được nếu theo nghề nghiệp đó trong tương
lai thì cần chuẩn bị gì. Ngoài ra, có những ngành nghề thực tế chưa xuất hiện trong
thời điểm hiện tại, nhưng thông qua các hoạt động học thực hành STEM sáng tạo,
học sinh có thể thấy bản thân có thể phát triển nên một hoạt động công việc gì đó
mới trong tương lai. Tổ chức tốt giáo dục STEM ở trường phổ thông, học sinh sẽ
được trải nghiệm trong các lĩnh vực STEM, đánh giá được sự phù hợp, năng khiếu,
sở thích của bản thân với nghề nghiệp thuộc lĩnh vực STEM. Thực hiện tốt giáo
dục STEM ở trường phổ thông cũng là cách thức thu hút học sinh theo học, lựa
chọn các ngành nghề thuộc lĩnh vực STEM, các ngành nghề có nhu cầu cao về
nguồn nhân lực trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Gắn kết giữa người dạy và người học. Giáo dục STEM đòi hỏi người dạy
phải tuân theo phong cách người hỗ trợ, hướng dẫn để giúp người học thu được
kiến thức từ những kinh nghiệm thực tế, đồng thời phải phù hợp với phong cách
của người học nhằm phát huy tốt nhất khả năng và sự sáng tạo ở người học.
Kết nối trường học với cộng đồng: Để giáo dục STEM đạt hiệu quả, việc đầu
tiên đó chính là trường học phải liên kết với các cơ sở khác xung quanh. Ví dụ ở
đây là các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đại học tại địa phương. Việc này sẽ khai
thác tối đa các nguồn lực về con người, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động dạy
và học STEM. Hơn nữa, hình thức giáo dục này cũng hướng tới giải quyết các vấn
đề riêng tại địa phương cũng như vấn đề chung của cộng đồng, của xã hội. Các
hoạt động này sẽ giúp tăng tính liên kết giữa các tổ chức lại với nhau.
1.3. Hình thức tổ chức dạy học STEM
1.3.1. Dạy học các môn khoa học theo bài học STEM
Đây là hình thức tổ chức giáo dục STEM chủ yếu trong nhà trường trung học.
Giáo viên thiết kế các bài học STEM để triển khai trong quá trình dạy học các môn
học thuộc chương trình giáo dục phổ thông theo hướng tiếp cận tích hợp nội môn
hoặc tích hợp liên môn.
1.3.2. Tổ chức hoạt động trải nghiệm STEM
Hoạt động trải nghiệm STEM được tổ chức thông qua hình thức câu lạc bộ
hoặc các hoạt động trải nghiệm thực tế, được tổ chức thực hiện theo sở thích năng
khiếu và lựa chọn học sinh một cách tự nguyện. Nhà trường có thể tổ chức các
không gian trải nghiệm STEM trong nhà trường, giới thiệu thư viện học liệu số, thí
nghiệm ảo, mô phỏng, phần mềm học tập để học sinh tìm hiểu, khám phá các thí
nghiệm, ứng dụng khoa học, kỹ thuật trong thực tiễn đời sống.
1.3.3. Tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học, kĩ thuật
Hoạt động này dành cho những học sinh có năng lực, sở thích và hứng thú
với các hoạt động tìm tòi, khám phá khoa học, kĩ thuật giải quyết các vấn đề thực
tiễn; thông qua qua trình tổ chức dạy học các bài học STEM và hoạt động trải
nghiệm STEM phát hiện các học sinh có năng khiếu để bồi dưỡng, tạo điều kiện
thuận lợi cho học sinh tham gia nghiên cứu khoa học, kĩ thuật.
Hoạt động nghiên cứu khoa học, kĩ thuật được thực hiện dưới dạng một đề
tài/dự án nghiên cứu bởi một cá nhân hoặc nhóm hai thành viên, dưới sự hướng
dẫn của giáo viên hoặc nhà khoa học có chuyên môn phù hợp.
1.4. Nội dung giáo dục STEM
1.4.1. Bài học STEM
Nội dung bài học STEM nằm trong chương trình giáo dục phổ thông, gắn kết
các vấn đề đời sống thực tiễn xã hội, khoa học, công nghệ và học sinh được yêu
cầu tìm các giải pháp để giải quyết vấn đề, chiếm lĩnh kiến thức, đáp ứng yêu cầu
cần đạt của bài học.
Nội dung kiến thức của các bài học thuộc một môn học hoặc một số môn học
trong chương trình, đảm bảo giải quyết được các vấn đề đặt ra một cách tương đối
trọn vẹn.
1.4.2. Hoạt động trải nghiệm STEM
Nội dung hoạt động trải nghiệm STEM được lựa chọn phải gắn liền với việc
thực hiện mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông, tạo hứng thú và động lực học tập nhằm phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh:
- Chú trọng những hoạt động liên quan, hoạt động tiếp nối ở mức vận dụng
(thiết kế, thử nghiệm, thảo luận và chỉnh sửa) các hoạt động của bài học STEM trong chương trình, tập trung vào việc giải quyết các vấn đề của thực tiễn xã hội, khoa học và công nghệ. - Nội dung gắn liền với các hoạt động nghề nghiệp liên quan đến lĩnh vực
STEM nhằm bổ trợ cho quá trình học tập, tạo hứng thú và động lực học tập, góp phần định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
1.4.3. Đề tài/ dự án nghiên cứu khoa học, kĩ thuật
Nội dung là giải quyết các vấn đề thực tiễn do học sinh, nhóm học sinh trên
cơ sở tự nguyện tham gia có năng lực, sở thích các hoạt động tìm tòi khám phá
khoa học, kĩ thuật. Đề tài/dự án nghiên cứu khoa học, kĩ thuật phù hợp với học
sinh, nhóm học sinh trên cơ sở đáp ứng qui định tại thông tư số 38/2012/TTBGDDT ngày 02/11/2012 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo.
1.5. Nguyên tắc lựa chọn chủ đề STEM
Đảm bảo mục tiêu dạy học: Học sinh lĩnh hội tri thức khoa học Hóa học và tri
thức phương pháp, phát triển năng lực chung và năng lực đặc thù của bộ môn, rèn
kĩ năng sống. Mục tiêu này dùng để định hướng xuyên suốt trong quá trình tổ chức
hoạt động.
Đảm bảo tính khoa học: Định hướng phát triển năng lực tư duy khoa học giúp
học sinh tiếp xúc, hình thành và phát triển một số các phương pháp nghiên cứu
khoa học.
Đảm bảo tính sư phạm: Thể hiện tính vừa sức và phù hợp với tâm sinh lí;
phải mang tính đặc trưng môn học, phù hợp với cách suy nghĩ, nhu cầu, sở thích
của học sinh.
Đảm bảo tính thực tiễn: Hoạt động phải gắn liền với thực tiễn cuộc sống và
có tính ứng dụng cao. Học sinh được học trong thực tiễn và bằng thực tiễn.
Đảm bảo tính đa dạng, phong phú: Tạo ra nhiều loại hoạt động phù hợp với
từng môi trường tổ chức đảm bảo cho học sinh được trải nghiệm, từ đó rút ra kiến
thức và vận dụng sáng tạo vào các tình huống mới.
1.6. Giáo dục STEM định hướng phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh
1.6.1. Tác dụng của giáo dụng STEM
Bản chất cốt lõi của chương trình giáo dục phổ thông mới là đem lại những
giá trị cho học sinh như phát triển năng lực, phẩm chất… Cạnh đó, với những yêu
cầu về dạy học tích hợp, đổi mới phương pháp trong chương trình giáo dục phổ
thông, vai trò của giáo dục STEM cực kỳ quan trọng. Bản chất của các môn khoa
học được xuất phát từ thực tiễn. Vì vậy, giáo dục STEM chính là cách thức để giúp
học sinh hiểu đúng bản chất, sử dụng kiến thức khoa học để giải quyết các tình
huống do chính thực tiễn đặt ra. Thông qua giáo dục STEM, học sinh được học từ
sai lầm thông qua thử nghiệm. Chính điều đó sẽ giúp hình thành và phát triển các
năng lực cần thiết ở học sinh.
1.6.2. Năng lực sáng tạo
Năng lực sáng tạo có thể xem là năng lực vốn có của mỗi con người, là khả
năng tạo ra những ý tưởng, vật chất mới, có tính độc lập, cải tiến, mới lạ, mang lại
giá trị vật chất và tinh thần (Vietnamese linguistic Institution, 2010). Năng lực
sáng tạo của con người nếu được phát huy sẽ góp phần cho sự phát triển không
ngừng của con người và xã hội. Năng lực sáng tạo của học sinh được thể hiện ở
khả năng giải quyết vấn đề. Không những thế, năng lực sáng tạo còn thể hiện cái
mới trong tư duy chủ động và tích cực. Giáo dục STEM có nhiều đặc điểm để phát
triển năng lực sáng tạo cho học sinh.
1.6.3. Xây dựng và thực hiện bài học STEM theo định hướng phát triển năng lực
sáng tạo cho học sinh.
Quy trình xây dựng bài học STEM
1.6.4. Một số căn cứ để xây dựng bộ công cụ đánh giá NL sáng tạo của học sinh
trong giáo dục STEM
Để đánh giá một cách gần chính xác và hiệu quả năng lực sáng tạo của học
sinh, giáo viên cần thiết kế một số công cụ thang đo phù hợp. Để thiết kế một số
công cụ đó cần căn cứ vào các sản phẩm học tập của học sinh như sau: Hồ sơ học tập (sổ tay cá nhân, sổ tay hoạt động nhóm, các bài báo cáo); Bảng trả lời câu hỏi định hướng; Bảng quan sát của giáo viên (sổ tay, hình ảnh, video); Sản phẩm thực tế của học sinh sau khi thực nghiệm.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thực tiễn dạy học theo định hướng giáo dục STEM nhằm phát triển năng
lực sáng tạo cho học sinh trong các nhà trường THPT
Giáo dục STEM được giới thiệu ở Việt Nam lần đầu cách đây gần 10 năm, ở
thời điểm đó nó hướng đến thị trường cao cấp ở những thành phố lớn và cũng chỉ
tập trung vào mảng robot và lập trình. Đến thời điểm này, có thể nói giáo dục
STEM đã tạo ra sự bùng nổ về thị trường khi nó trở thành một từ khóa trong lĩnh
vực kinh doanh giáo dục. Nhiều trung tâm ngoại ngữ, trung tâm kỹ năng sống đều
mở lớp dạy STEM. Các trại hè chủ đề STEM cũng rất phổ biến. Có những công ty
giáo dục mở liền một lúc vài trung tâm STEM. Những phát triển ào ạt đó khiến
người ta đôi lúc quên mất rằng, giáo dục STEM theo nghĩa rộng là một định hướng
dạy học mang tính thực hành và gắn liền với thực tiễn cuộc sống chứ không đơn
thuần là hướng dẫn cách làm những thí nghiệm vật lý, hóa học hay lắp ráp, lập
trình cho một con robot cụ thể. Tiến hành một thí nghiệm thì dễ nhưng giúp học
sinh hiểu bản chất của thí nghiệm và liên kết được thí nghiệm với các ứng dụng
trong cuộc sống lại không hề đơn giản; việc xây dựng một định hướng dạy và học
mới trong nhà trường cũng như vậy, vô cùng thách thức. Và sự bùng nổ của STEM
trên học đường mới chính là điều chúng ta chờ đợi. Vì thế Chỉ thị số 16/CT-TTg
ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4; Chỉ thị số 666/CT-BGDĐT ngày
24/8/2020 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) về nhiệm vụ và giải
pháp năm học 2020-2021 của ngành Giáo dục; Công văn 3414/BGDĐT-GDTrH
ngày 04/9/2020 về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học
2020-2021; Công văn 3089/BGDĐT-GDTrH ngày 14/8/2020 về việc triển khai
thực hiện giáo dục STEM trong giáo dục trung học, trong đó có những giải pháp và
nhiệm vụ thúc đẩy giáo dục STEM tại Việt Nam, giáo dục STEM đã bắt đầu sôi
nổi tại học đường. Bên cạnh đó, giáo dục STEM đã được đưa vào nhiệm vụ năm
học của nhiều Sở GD-ĐT trên cả nước. Bộ Giáo dục và đào tạo đã triển khai các
phong trào, các cuộc thi trong nhà trường phổ thông theo hướng này, điển hình
như: Dạy học tích hợp theo định hướng giáo dục STEM, sinh hoạt câu lạc bộ
STEM, các cuộc thi khoa học kĩ thuật cấp trường, cấp tỉnh, cấp quốc gia, các hoạt
động trải nghiệm sáng tạo, phối hợp tổ chức các hoạt động STEM giữa nhà trường
và các tổ chức tư nhân, các sự kiện STEM, ngày hội STEM…
Thời gian qua, ngành giáo dục đã tích cực thực hiện giáo dục STEM, xây
dựng các chủ đề dạy học liên môn. Việc dạy học các chủ đề STEM góp phần đổi
mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá. Tuy nhiên, nhiều địa phương, đơn vị
chưa nhận thức đầy đủ mục đích ý nghĩa của hoạt động giáo dục STEM khiến việc
triển khai chưa hiệu quả và còn do một số khó khăn như sau:
– Chưa “Chương trình hóa” giáo dục STEM: Mặc dù Chương trình giáo dục
phổ thông mới đã tạo điều kiện thuận lợi hơn để có thể triển khai giáo dục STEM;
tuy nhiên, với khung chương trình đề ra, giáo viên vẫn gặp khó khăn trong việc tổ
chức các nội dung, chủ đề sao cho vừa đảm bảo yêu cầu của khung chương trình,
vừa phát huy sức sáng tạo của học sinh. Như vậy, khi triển khai Chương trình mới
giáo dục phổ thông mới, cần phải có hướng dẫn về những chủ đề STEM trong các
môn/lĩnh vực học tập để tạo thuận lợi cho giáo viên tổ chức dạy học. Đi kèm với
việc “Chương trình hóa” giáo dục STEM cũng cần có các chính sách, chế độ, quy
định kèm theo. Vì, khi chưa có các quy định, chính sách cụ thể sẽ khiến quá trình
triển khai giáo dục STEM chưa có chỗ đứng vững chắc mà mới chỉ dừng lại ở hình
thức, phong trào.
– Trình độ giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu: Theo một số nghiên cứu về
thực trạng năng lực dạy học tích hợp của giáo viên trung học có đến hơn 60% giáo
viên tự đánh giá năng lực dạy học tích hợp và kiến thức liên ngành của mình chỉ ở
mức độ trung bình. Phần lớn giáo viên chỉ được đào tạo đơn môn, do đó sẽ gặp khó
khăn nếu triển khai dạy học theo hướng liên ngành như giáo dục STEM. Bên cạnh
đó, đa số giáo viên còn ngại học hỏi, ngại chia sẻ với đồng nghiệp, nên chưa có sự
phối hợp tốt giữa giáo viên các bộ môn trong dạy học STEM.
– Chưa có sự phối hợp tốt giữa trường phổ thông với trường đại học và các
viện nghiên cứu, các tổ chức, doanh nghiệp: Giáo dục STEM chỉ đạt hiệu quả khi
có sự phối hợp tốt giữa trường phổ thông với các trường đại học trong quá trình
đào tạo, bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho giáo viên. Ngoài ra, cần có sự hỗ trợ
của các viện nghiên cứu, tổ chức giáo dục và khoa học, hội nghề nghiệp, doanh
nghiệp để đảm bảo tính thường xuyên, liên tục. Thực tế cho thấy, đã có sự phối
hợp giữa một số ít các trường đại học, viện nghiên cứu trong đào tạo, tập huấn giáo
viên; bước đầu có sự phối hợp giữa các tổ chức tư nhân, doanh nghiệp hỗ trợ các
hoạt động giáo dục STEM trong nhà trường. Nhưng mới chỉ là những điển hình
đơn lẻ, chưa trở thành sự liên kết rộng khắp và bền vững.
– Kiểm tra, đánh giá còn là “rào cản”: Môn Công nghệ và Tin học là 2 môn
thành tố của giáo dục STEM nhưng vẫn chưa có vị trí đúng. Hơn nữa, việc kiểm
tra, đánh giá hiện nay ở trường phổ thông được tổ chức theo hình thức làm bài thi
trắc nghiệm kiểm tra kiến thức, kĩ năng, trong khi kiểm tra, đánh giá theo mô hình
giáo dục STEM là đánh giá thông qua sản phẩm, đánh giá quá trình. Vì vậy, trên
thực tế, việc triển khai giáo dục STEM vẫn phải “tránh” các lớp cuối cấp (lớp 9,
lớp 12) để dành thời gian cho học sinh luyện thi. Còn với các khối lớp khác không
nặng về thi chuyển cấp thì vẫn phải đảm bảo học để thi hết kì cho nên việc học
theo sách giáo khoa, luyện giải bài tập vẫn là hoạt động chính của học sinh, giáo
viên chỉ dành một phần thời gian cho các hoạt động STEM (ngoại khóa, hoạt động
sau giờ học) là chủ yếu. Như vậy, kiểm tra, đánh giá chậm đổi mới sẽ là “rào cản”
lớn nhất ngăn cản sự triển khai STEM trong nhà trường phổ thông.
– Điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra: Sĩ số mỗi lớp học
quá đông cũng gây khó khăn cho tổ chức hoạt động, cản trở việc đổi mới phương
pháp dạy học của giáo viên; việc không có phòng học STEM hoặc phòng thực
hành để học sinh có nơi làm việc nhóm, nghiên cứu, thí nghiệm cũng là một khó
khăn. Ngoài ra, với các nội dung học tập chuyên sâu hơn như khoa học máy tính,
robotics, lập trình thì cần đầu tư kinh phí lớn hơn, nên đây cũng là rào cản. Tóm
lại, thực tế triển khai giáo dục STEM trong nhà trường phổ thông ở Việt Nam đã
đạt được những kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Đây là nền tảng để chúng ta tiếp
tục có những nghiên cứu, chính sách, đề xuất nhằm đáp ứng việc triển khai
Chương trình giáo dục phổ thông mới nhằm hạn chế những khó khăn, rào cản đang
gặp phải. Tuy nhiên, bất kì sự thay đổi lớn nào cũng có những khó khăn khi mới
bắt đầu, bằng sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, đặc biệt những năm gần đây, tôi
tin rằng giáo dục STEM sẽ ngày càng được chuẩn hóa nội dung, cùng đội ngũ giáo
viên và công tác đánh giá.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua nghiên cứu về Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề STEM, thu được kết luận như sau:
Giáo dục STEM rất cần thiết và phù hợp với bối cảnh giáo dục Việt Nam hiện
nay. Triển khai dạy học theo định hướng giáo dục STEM trong trường phổ
thông nói chung và trong dạy học Hoá học nói riêng là nhiệm vụ trong kế
hoạch giáo dục của các trường phổ thông. Thông qua hoạt động dạy học theo
định hướng giáo dục STEM, học sinh có cơ hội phát triển cả phẩm chất và
năng lực, điều đó hoàn toàn phù hợp với các mục tiêu đề ra trong định hướng
đổi mới giáo dục và trong chương trình giáo dục phổ thông mới 2018.
Đề tài của chúng tôi được hoàn thành sau một thời gian nghiên cứu, thiết kế
và tổ chức hoạt động học tập, đúc rút kinh nghiệm giảng dạy của bản thân và từ
các ý kiến đóng góp chân thành của các đồng nghiệp nơi tôi công tác. Chúng tôi hy
vọng đề tài của mình đóng góp một phần nhỏ cho sự phát triển của xu hướng giáo
dục STEM hiện nay và đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới
2018.
3.2. Kiến nghị
Qua kinh nghiệm giảng dạy theo định hướng giáo dục STEM, chúng tôi mạnh
dạn đề xuất thêm một vài ý kiến như sau:
3.2.1. Với các nhà trường THPT
+ Để giáo dục STEM ở phổ thông đạt được hiệu quả cần sư quan tâm đầy đủ
và toàn diện của ban giám hiệu nhà trường tới lĩnh vực giáo dục khoa học (công
nghệ, kỹ thuật, toán, tin học. ..).
+ Nhà trường cần tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất cho giáo viên và
học sinh như:
– Hỗ trợ một phần kinh phí cho giáo viên và học sinh để mua nguyên vật liệu
(nếu cần) khi thực hiện dạy học theo định hướng giáo dục STEM.
– Có không gian lớp học phải thoáng, rộng, bàn ghế dễ sắp xếp và lắp đặt hệ
thống mạng ổn định để giáo viên và học sinh thuận tiện trong quá trình dạy học.
– Phòng học phải trang bị đầy đủ các phương tiện trình chiếu như ti vi, máy
chiếu, …
– Dụng cụ, hóa chất trong phòng thực hành đầy đủ, đáp ứng yêu cầu cho giáo
viên và học sinh khi cần sử dụng.
– Thư viện trường có đủ sách giáo khoa, tài liệu tham khảo để học sinh tự học,
tự nghiên cứu.
+ Sĩ số lớp học không nên quá đông, tốt nhất từ 25 tới 30 học sinh.
3.2.2. Về phía học sinh
– Học sinh cần thay đổi quan điểm “thi gì học nấy”. Các em phải xác định
được mục tiêu mới của các em hiện nay là học để phát triển phẩm chất và năng lực.
– Mỗi học sinh phải có thái độ học tập đúng đắn, luôn chủ động, nâng cao tính
tự giác trong học tập.
– Học sinh cần phải nỗ lực tự giải quyết nhiệm vụ học tập, độc lập, tự chủ,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tránh thói dựa dẫm, chây lười.
– Biết cách hợp tác làm việc nhóm, luôn lắng nghe ý kiến của bạn bè và phản
hồi lại ý kiến theo hướng tích cực và xây dựng. Mạnh dạn góp ý, đưa ra ý kiến
riêng và có luận điểm, luận chứng bảo vệ các ý kiến đó.
– Luôn có ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường trong các hoạt động học
tập, tu dưỡng.
3.2.3. Về phía giáo viên
Theo chúng tôi, để việc dạy học theo định hướng STEM thành công cần nhiều
yếu tố, như nội dung, phương pháp, phương tiện, thời gian dạy học,…Chính vì thể
giáo viên luôn phải say mê trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, cập nhập các
phương pháp dạy học tích cực, đổi mới và sáng tạo; có tinh thần yêu nghề, nhiệt
huyết. Bên cạnh đó, chúng tôi luôn mong muốn được tham gia đại trà các đợt tập
huấn liên quan đến nội dung, phương pháp dạy học theo định hướng giáo dục
STEM của Bộ GD – ĐT và Sở GD – ĐT để có nhiều kiến thức, kinh nghiệm và kỹ
năng hơn trong tổ chức dạy học đạt hiệu quả cao.
Khi tổ chức các hoạt động giáo dục STEM cần sự giúp sức và góp ý chân
thành từ các đồng nghiêp cùng môn và liên môn. Vì thế vai trò của tổ nhóm
chuyên môn là rất quan trọng, góp ý xây dựng chủ đề trong các phiện họp nhóm,
họp tổ và dự giờ góp ý trong quá trình tổ chức thực hiện. Rút kinh nghiệm và chia
sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp để tiếp tục hoàn thiện trong việc thiết kế và tổ
chức dạy học STEM.
Mỗi giáo viên cần xây dựng cho mình một bộ giáo án hợp lí về nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức, thời gian tổ chức và bộ đánh giá học sinh phù
hợp. Trong quá trình dạy học cần chú ý vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy
học và ứng xử sư phạm khéo léo để khuyến khích, động viên học sinh, đặc biệt là
học sinh trung bình và yếu để các em tham gia vào các nhiệm vụ học tập đạt hiệu
quả cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo (2020), công văn số 3089/BGDDT-GDTrH ngày
14/8/2020 về việc triển khai thực hiện giáo dục STEM trong giáo dục trung học.
2. Bộ giáo dục và đào tạo Việt Nam (2018), Chương trình giáo dục phổ thông tổng
thể 2018.
3. Nguyễn Văn Biên, Tưởng Duy Hải, Trần Minh Đức, Nguyễn Văn Hạnh, Chu
Cẩm Thơ, Nguyễn Anh Thuấn, Đoàn Văn Thược, Trần Bá Trình (2019), Giáo dục
STEM trong nhà trường phổ thông, NXB Giáo dục Việt Nam.
4. Trịnh Văn Biều (2003), Các phương pháp dạy học hiệu quả, NXB ĐHSP
TP.HCM.
5. Nguyễn Thành Đạt, Phạm Văn Lập, Trần Dự Chi, Trịnh Nguyên Giao, Phạm
Văn Ty (2017), Sách giáo khoa Sinh học lớp 10, NXB. Giáo dục Việt Nam.
6. Nguyễn Thành Đạt, Lê Đình Tuấn, Nguyễn Như Khanh (2012), Sách giáo khoa
Sinh học lớp 11, NXB. Giáo dục Việt Nam.
7. Nguyễn Thành Hải (2019), Giáo dục STEM/STEAM từ trải nghiệm thực hành
đến tư duy sáng tạo, NXB Trẻ.
8. Nguyễn Văn Khôi, Trần Văn Chương, Vũ Thuỳ Dương, Văn Lệ Hằng, Vũ Văn
Hiển (2006), Sách giáo khoa Công nghệ 10, NXB Giáo dục Việt Nam.
9. Nguyễn Thanh Nga, Hoàng Phước Muội, Phùng Việt Hải, Nguyễn Quang Linh,
Nguyễn Anh Dũng, Ngô Trọng Tuệ (2019), Dạy học chủ đề STEM cho học sinh
trung học cơ sở và trung học phổ thông, NXB ĐHSP TP. HCM.
10. Tạp chí giáo dục số đặc biệt tháng 9 năm 2018.
11. Nguyễn Xuân Trường, Lê Mậu Quyền, Phạm Văn Hoan và Lê Chí Kiên
(2013), Hóa học 11, NXB Giáo dục Việt Nam.
12. UBND Tỉnh Nghệ An (2021)), công văn số 1749 /SGD&ĐT- GDTrH ngày 3/
8/2021 của UBND Tỉnh Nghệ An về hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung
học năm học 2021-2022 nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2021-2022.
13. Vụ giáo dục trung học (2019), Tập huấn cán bộ quản lý, giáo viên về xây dựng
chủ đề giáo dục STEM trong giáo dục trung học, BGD&ĐT
14. Vụ giáo dục trung học (2018), Định hướng giáo dục STEM trong trường trung
học, BGD&ĐT
15. Một số tài liệu của nước ngoài được dịch sáng tiếng Việt như The White
House, S.t.o.U.A, 2009; U.S. Department of Education, 2007; Merrill &
Daugherty, 2009; Morrison & Bartlett, 2009; Tsupros & Hallinen, 2009; Sanders,
2009; Hom, 2014; …